Sự nghiệp Lương_Đắc_Bằng

Ông đỗ Bảng nhãn hay Hội nguyên ở kì thi Hội năm Kỷ Mùi 1499 đời vua Lê Hiến Tông; rồi thi Đình đỗ Nhất giáp tiến sĩ tên thứ 2, khi ứng chế được xếp thứ nhất.[3] Ra làm quan, được thăng đến chức Tả Thị Lang bộ Lễ, Thị độc viện hàn lâm coi việc ở viện.[2]

Năm 1504, vua Hiến Tông chết, người con thứ lên làm vua, tức vua Lê Túc Tông, Lê Túc Tông chết sớm, người anh lên thay tức vua Lê Uy Mục. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Vua nghiện rượu, hiếu sát, hoang dâm, thích ra oai, tàn hại người tông thất, giết ngầm tổ mẫu, họ ngoại hoành hành, trăm họ oán giận, người bấy giờ gọi là Quỷ vương, điềm loạn đã xuất hiện từ đấy. Năm 1509, vua Uy Mục đuổi những người tôn thất, công thần về Thanh Hóa, đại thần Nguyễn Văn Lang có trong số đó, ông đem quân ba phủ nổi quân ở Thanh Hóa, đón Giản tu công Lê Dinh làm minh chủ. Lê Đắc Bằng tham gia trong đó, Nguyễn Văn Lang bèn sai Lê Đắc Bằng soạn hịch kể tội vua Uy Mục.[4]

Nguyễn Văn Lang phát binh ra Thăng Long, vua Uy Mục thua trận, phải uống thuốc độc tự tự, năm ấy Lê Dinh lên ngôi, tức vua Lê Tương Dực. Sau khi lên ngôi vua sai đầu mục Lê Quảng Độ, Lê Điêu, Nguyễn Văn Lang, Lê Tung, Hưng Hiếu, Trình Chí Sâm, Trịnh Tuy, Lương Đắc Bằng, Đỗ Lý Khiêm, Đinh Ngạc, Đặng Minh Khiêm, Đỗ Nhân, Lê Nại, Đàm Thận Giản đi sứ sang nhà Minh. Vua dời thi hài mẹ mình về táng ở hương Mỹ Xá, huyện Ngự Thiên, dựng bia Huy Từ Trang Huệ Kiến Hoàng thái hậu. Sai Lương Đắc Bằng lúc ấy làm Lễ bộ tả thị lang Hàn lâm viện thị độc chưởng Hàn lâm viện sự soạn bi ký.[5]

Năm 1510, vua Tương Dực phong thưởng cho các công thần, Lương Đắc Bằng được thăng làm Lại bộ Tả thị lang. Năm ấy vua khởi phục Lại bộ tả thị lang Lương Đắc Bằng kiêm Đông các học sĩ, nhập thị kinh diên[6] nhưng Đắc Bằng cố từ chối không nhận. Nhân đó, Đức Bằng dâng lên 14 kế sách trị bình:[2][5]

  1. Hết sức cảnh giới để dẹp điềm tai dị
  2. Hết lòng hiếu thảo để tỏ lòng trung.
  3. Xa thanh sắc để làm gốc cho sự chính tâm.
  4. Bỏ kẻ tà nịnh để trọng nguồn phong hóa.
  5. Dè dặt việc cho quan tước để cẩn thận về việc khuyến trừng.
  6. Tuyển bổ công bằng để đường làm quan được trong sạch.
  7. Tiêu dùng phải dè dặt để giữ thói kiệm ước.
  8. Khen người cho những người có tiết nghĩa để trọng đạo cương thường.
  9. Cấm hối lộ để bỏ thói gian tham.
  10. Sửa sang võ bị để thế nước được vững.
  11. Kén chọn gián quan để cho người dám nói phấn khởi.
  12. Bớt việc phục dịch để thỏa tình dân trông ngóng.
  13. Hiệu lệnh phải nhất định để thống nhất lòng bốn phương
  14. Cẩn thận pháp độ để mở đường thịnh trị.[2][7]

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép là vua nghe theo; sách Lịch triều hiến chương loại chí viết vua khen ngợi và nhận lời. Ông làm quan đến Thượng thư bộ Lại, được Tham dự triều chính, tước Đôn trung bá. Hơn 50 tuổi thì chết, con ông là Lương Hữu Khánh, theo học Nguyễn Bỉnh Khiêm, trước đi thi theo nhà Mạc nhưng sau theo Trịnh Kiểm, làm đến Thượng thư, tước Đạt quận công.[8]